Nước Trời Của Những Ai Nên Giống Như Trẻ Nhỏ (Mt 19,4)

 

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo

CATECHISMUS CATHOLICAE ECCLESIAE

1992

 

PHẦN THỨ NHẤT

Tuyên Xưng Đức Tin

PARS PRIMA
PROFESSIO FIDEI


ĐOẠN THỨ NHẤT

“TÔI TIN” – “CHÚNG TÔI TIN”

SECTIO PRIMA
“CREDO” – “CREDIMUS”


Mục 3

THÁNH KINH

Articulus 3: De sacra Scriptura

 

I. ĐỨC KITÔ - LỜI DUY NHẤT CỦA THÁNH KINH

Christus – Unicum sacrae Scripturae Verbum  

 

101.     Để mặc khải chính mình cho loài người, Thiên Chúa đã đoái thương dùng ngôn ngữ loài người mà nói với ho (139): "Lời của Thiên Chúa, diễn đạt bằng ngôn ngữ nhân loại, (tr 150) nên giống tiếng nói loài người, cũng như khi xưa Ngôi Lời của Cha hằng hữu đã trở nên giống như con người khi mặc lấy xác phàm yếu đuối của chúng ta" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 13: AAS 58 (1966) 824).


102 65, 2763   Qua tất cả các lời ở trong Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ nói có một Lời là Ngôi Lời duy nhất, trong Người, Thiên Chúa nói hết về mình cho nhân loại (Dt 1,1-3):

426-429           Anh em hãy nhớ rằng Lời duy nhất của Thiên Chúa được trải dài trong toàn bộ Thánh Kinh, chính Ngôi Lời duy nhất vang trên môi miệng của tất cả các tác giả Thánh Kinh. Vì chính Người, ngay từ đầu là Thiên Chúa ở bên Thiên Chúa, chẳng cần đến chữ với lời, bởi Người không lệ thuộc vào thời gian (Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 103, 4, 1: CCL 40, 1521 (PL 37, 1378), Tv 103,4,1).

103 1100, 1184 1378  Vì lý do đó, Hội Thánh luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Mình Thánh Chúa. Hội Thánh không ngừng lấy Bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Thiên Chúa và Mình Thánh Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu (X. CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827)

104.     Trong Thánh Kinh, Hội Thánh không ngừng tìm được lương thực và sức mạnh (X. CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 24: AAS 58 (1966) 829), vì nơi đó, Hội Thánh không chỉ đón nhận một lời phàm nhân, nhưng thực sự là Lời của Thiên Chúa (1Th 2,13). "Thật vậy, trong các Sách Thánh, Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, âu yếm đến với con cái của Người và đối thoại với họ" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827-828).


II. LINH HỨNG VÀ CHÂN LÝ CỦA THÁNH KINH

De inspiratione et veritate sacrae Scripturae  

 

105.     Thiên Chúa là tác giả của Thánh Kinh "Những gì Thiên Chúa mặc khải mà Thánh Kinh chứa đựng và trình bày, đều được viết ra dưới sự linh hứng của Thánh Thần". "Hội Thánh, Mẹ chúng ta, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ Cựu Ước cũng như Tân Ước, với tất cả các thành phần đều là Sách Thánh, và được ghi vào bản chính lục của Thánh Kinh, bởi lẽ được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần nên tác giả các sách ấy là chính Thiên Chúa và chúng được lưu truyền cho Hội Thánh với danh nghĩa như vậy" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 822-823).

106.     Thiên Chúa đã linh hứng cho các tác giả nhân loại viết các Sách Thánh. "Để soạn các Sách Thánh đó, Thiên Chúa đã chọn những con người và dùng họ với đầy đủ các khả năng và phương tiện của họ, để khi chính Người hành động trong họ và qua họ, họ viết ra như những tác giả đích thực tất cả những gì Chúa muốn, và chỉ viết những điều đó thôi" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 823).

107 702           Các sách được linh hứng giảng dạy sự thật. "Vậy bởi phải xem mọi lời các tác giả được linh hứng, còn gọi là các Thánh Ký viết ra, là những lời của Chúa Thánh Thần, nên phải công nhận rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, những chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại để cứu độ chúng ta" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 823).

108.     Tuy nhiên, đức tin Kitô giáo không phải là "đạo thờ Sách, "nhưng là đạo do "Lời" Thiên Chúa, "không phải một lời được viết ra và câm lặng, nhưng là Ngôi Lời nhập thể và hằng sống" (Thánh Bênađô Clairvaux, bài giảng về kẻ được sai đi 4,11). Để các lời của Sách Thánh không chỉ là văn tự chết, Đức Kitô, Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa hằng sống, nhờ Thánh Thần "mở trí cho chúng ta hiểu được Thánh Kinh" (Lc 24, 45).


III. CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG GIẢI NGHĨA THÁNH KINH
Spiritus Sanctus Scripturae interpres  

 

109.     Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa nói với con người theo cách thức loài người. Vậy để giải nghĩa Thánh Kinh cho đúng, phải cẩn thận tìm hiểu điều các thánh ký thật sự có ý trình bày và điều Thiên Chúa muốn diễn tả qua lời lẽ của họ (X. CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 823.).

110.     Để khám phá ý định của các Thánh Ký, phải xét đến thời đại và văn hoá của họ, các "thể văn" thông dụng thời bấy giờ, cách thức cảm nghĩ, diễn tả, và tường thuật thịnh hành thời của họ. "Vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau như thể văn lịch sử, ngôn sứ, thi ca...hoặc những thể loại khác" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 823).

111.     Vì Thánh Kinh được linh hứng, nên còn một nguyên tắc khác để giải nghĩa cho đúng. Nguyên tắc này không kém quan trọng so với nguyên tắc trên và không có nó thì Thánh Kinh chỉ là văn tự chết: "Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần nên cũng phải được đọc và giải thích trong Chúa Thánh Thần" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 824).
Công đồng Vatican II đưa ra ba tiêu chuẩn để giải thích Thánh Kinh theo Thánh Thần, Đấng đã linh hứng (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 824).

112 128 368    1* Trước hết, phải hết sức chú ý đến "nội dung và tính thống nhất của toàn bộ Thánh Kinh". Các Sách Thánh, dù có khác biệt nhau mấy đi chăng nữa, vẫn là một do tính duy nhất của chương trình Thiên Chúa mà Đức Kitô Giêsu là trung tâm điểm và là trái tim, được rộng mở từ cuộc Vượt Qua của Người (x. Lc 24,25-27. 44-46).

Trái tim (x. Tv 22,15) Đức Kitô chỉ Thánh Kinh, và Thánh Kinh giúp ta hiểu rõ trái tim Người. Trước cuộc khổ nạn, trái tim này còn đóng kín, vì Thánh Kinh còn tối nghĩa. Nhưng sau cuộc khổ nạn, Thánh Kinh đã được mở ra, vì từ nay những ai hiểu được cuộc khổ nạn sẽ biết suy xét và hiểu được phải giải nghĩa các lời ngôn sứ như thế nào (Thánh Tôma Aquinô. Tv 21,11).

113 81             2* Kế đến, phải đọc Thánh Kinh trong "Truyền thống sống động của toàn thể Hội Thánh". Theo một châm ngôn của các giáo phụ Thánh Kinh phải được đọc chủ yếu trong con tim Hội Thánh hơn là trên những vật liệu dùng để viết Thánh Kinh. Thật vậy, Hội Thánh giữ trong truyền thống của mình ký ức sống động của Lời Thiên Chúa, và chính Thánh Thần giải thích cho Hội Thánh ý nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh ("...theo nghĩa thiêng liêng mà Thánh Thần ban cho Hội Thánh được hiểu") (Origiênê, Homiliae in Leviticum, 5, 5: SC 286, 228 bài giảng; Lv 5,5).

114 90             3* Phải lưu ý đến “tính tương hợp của đức tin” (x. Rm 12,6). "Tính tương hợp của đức tin" được hiểu là sự liên kết chặt chẽ giữa các chân lý đức tin với nhau và trong toàn bộ chương trình mặc khải.

Các nghĩa được dùng trong Thánh Kinh

De Scripturae sensibus
115.     Theo một truyền thống cổ xưa, có thể phân biệt hai nghĩa được dùng trong Thánh Kinh: nghĩa văn tự và nghĩa thiêng liêng. Nghĩa thiêng liêng được chia thành nghĩa ẩn dụ, luân lý và dẫn đường. Sự hòa hợp sâu xa của bốn nghĩa này bảo đảm cho việc đọc Thánh Kinh cách sống động trong Hội Thánh được phong phú tối đa:


116 110-114    Nghĩa văn tự: Đây là nghĩa mà lời Thánh Kinh nêu lên và được khoa chú giải khám phá ra khi tuân theo những qui luật để giải nghĩa đúng. "Tất cả các nghĩa trong Thánh Kinh đều dựa vào nghĩa văn tự " (Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, Tổng luận 1,1,10, 1.).

117 1101         Nghĩa thiêng liêng: Vì tính thống nhất của kế hoạch của Thiên Chúa, không những bản văn Thánh Kinh, mà cả những sự việc và biến cố được bản văn nói tới, đều có thể là những dấu chỉ.

1. Nghĩa ẩn dụ: Chúng ta có thể hiểu thấu đáo hơn các biến cố bằng cách nhận ra ý nghĩa của nó trong Đức Kitô. Ví dụ cuộc vượt qua Biển Đỏ là dấu chỉ cuộc chiến thắng của Đức Kitô, và do đó cũng là dấu chỉ của bí tích Rửa Tội (x. 1Cr 10,2).

2. Nghĩa luân lý: Các biến cố được Kinh Thánh thuật lại phải dẫn chúng ta đến một cách ăn ở chính trực. Các biến cố đó được viết ra "để răn dạy chúng ta" (1 Cr 10,11) (x. Dt 3-4,11).

3. Nghĩa dẫn đường: Chúng ta cũng có thể nhìn các sự việc và các biến cố trong ý nghĩa vĩnh cửu của chúng, theo nghĩa chúng dẫn đường (tiếng Hy lạp: anagoge, nghĩa là dẫn đường) cho chúng ta về Quê trời. Thí dụ Hội Thánh nơi trần thế là dấu chỉ Giêrusalem thiên quốc (x. Kh 21,1-22,5).

118.     Hai câu thơ thời trung cổ tóm tắt ý của bốn nghĩa như sau:
Nghĩa văn tự dạy về biến cố,
Nghĩa ẩn dụ dạy điều phải tin,
Nghĩa luân lý dạy điều phải làm,
Nghĩa dẫn đường dạy điều phải vươn tới.
(Rotulus prigiecaris I: ed A WALZ : Angelium 6 (1929) Augustin de Dace).

119 94   "Theo các qui tắc ấy, người chú giải Thánh Kinh có nhiệm vụ nỗ lực tìm hiểu và trình bày ý nghĩa Thánh Kinh cách sâu rộng hơn, hầu những nghiên cứu của họ, như một việc làm chuẩn bị, giúp phán quyết của Hội Thánh được chín chắn. Thật vậy, mọi điều liên hệ đến việc giải thích Thánh Kinh cuối cùng đều phải tùy thuộc vào phán quyết của Hội Thánh, vì Hội Thánh được Thiên Chúa giao cho sứ mạng và chức vụ gìn giữ và giải thích lời Chúa" (CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 824).

113.     Tôi sẽ không tin vào Tin Mừng, nếu thẩm quyền của Hội Thánh Công Giáo không thúc giục tôi (Thánh Augustinô, Contra epistulam Manichaei quam vocant fundamenti, Hộ giáo 5,6).

 


IV. GIÁO QUY VỀ THÁNH KINH
De Scripturarum canone  

 

120 117           Chính Truyền Thống các Tông đồ giúp Hội Thánh phân định những văn bản nào phải được kể vào danh mục các Sách Thánh (X. CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 8: AAS 58 (1966) 821). Danh mục đầy đủ này được gọi là "Quy điển" các Sách Thánh, gồm 46 bản văn Cựu ước (hoặc 45, nếu gom Giêrêmia và Ai Ca thành một) và 27 bản văn cho Tân Ước (Decretum Damasi: DS 179-180; CĐ Florentinô, Decretum pro lacobitis: DS 1334-1336; CĐ Triđentinô, Sess. 4a, Decretum de Libris Sacris et de traditionibus recipiendis: DS 1501-1504):

Phần Cựu Ước gồm các sách: Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số, Đệ Nhị Luật, Giôsuê, Thủ Lãnh, Rút, l và 2 Samuen, l và 2 Các Vua, 1 và 2 Sử Biên Niên, Étra và Nơkhemia, Tôbia, Giuđitha, Étte, l và 2 Macabê, Gióp, Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Giảng Viên, Diễm Ca, Khôn Ngoan, Huấn Ca, Isaia, Giêrêmia, Ai Ca, Barúc, Êdêkien, Đanien, Hôsê, Giôen, Amốt, Ôvađia, Giôna, Mikha, Nakhum, Khabacúc, Xôphônia, Khácgai, Dacaria, Malakhi.

 

Phần Tân Ước gồm các sách: các sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu, theo thánh Máccô, theo thánh Luca, theo thánh Gioan, Công vụ Tông Đồ, Thư Rôma, Thư 1 và 2 Côrintô, Thư Galát, Thư Êphêxô, Thư Philípphê, Thư Côlôxê, Thư l và 2 Thêxalônica, Thư 1 và 2 Timôthê, Thư Titô, Thư Philêmôn, Thư Do thái, Thư thánh Giacôbê, Thư l và 2 của thánh Phêrô, Thư 1, 2 và 3 của thánh Gioan, Thư thánh Giuđa, Khải Huyền.



Cựu Ước

Vetus Testamentum
121 1093         Cựu Ước là một phần của Thánh Kinh không thể thiếu được. Các sách Cựu Ước được Thiên Chúa linh hứng luôn có giá trị vĩnh cửu (X. CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 14: AAS 58 (1966) 825) vì giao ước cũ không hề bị thu hồi.

122 702 , 763 708 2568          "Lý do chính của nhiệm cục thời Cựu Ước là chuẩn bị cho ngày xuất hiện của Đức Kitô Cứu Thế". "Dù còn chứa đựng những điều bất toàn và tạm thời", các sách Cựu Ước minh chứng khoa sư phạm thần diệu của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa: "Vì chúng tàng trữ những lời giáo huấn cao siêu về Thiên Chúa, những tư tưởng khôn ngoan và hữu ích về đời sống con người, những kho tàng kinh nguyện tuyệt diệu và sau cùng ẩn chứa mầu nhiệm cứu độ chúng ta" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 15: AAS 58 (1966) 825).

123.     Người Kitô hữu tôn kính Cựu Ước như là Lời Thiên Chúa đích thật. Hội Thánh cực lực chống lại ý kiến đòi gạt bỏ Cựu Ước, viện cớ Tân Ước đã làm cho Cựu Ước ra lỗi thời (chủ thuyết Marcion).

Tân Ứớc

Novum Testamentum
124.     "Lời Chúa là sức mạnh thần thiêng cứu độ mọi tín hữu, được trình bày và tỏ lộ quyền năng cách đặc biệt trong các sách Tân Ứơc" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 17: AAS 58 (1966) 826). Các sách ấy trao cho chúng ta chân lý tối hậu của Mặc khải. Trung tâm của Tân Ước là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể, các hành vi, lời giảng dạy, cuộc khổ nạn và tôn vinh của Người, cũng như những bước đầu của Hội thánh dưới tác động của Chúa Thánh Thần (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 20: AAS 58 (1966) 827).

125 515           Các Sách Tin Mừng là trung tâm của Thánh Kinh "vì là chứng từ tuyệt hảo về cuộc đời và giáo huấn của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng Cứu Độ chúng ta" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 18: AAS 58 (1966) 826).

126 76             Trong việc hình thành các sách Tin Mừng, người ta có thể phân biệt ba giai đoạn:

1. Cuộc đời và Giáo Huấn của Đức Giêsu. "Hội Thánh luôn khẳng định lịch sử tính của bốn sách Tin Mừng, cũng như mạnh mẽ và liên tục xác nhận bốn sách Tin Mừng trung thành ghi lại những gì Đức Giêsu Con Thiên Chúa khi sống giữa loài người, thực sự đã làm và đã dạy vì ơn cứu độ đời đời của họ, cho tới ngày Người lên trời".

2. Truyền khẩu. "Những gì Chúa đã nói và làm, thì sau cuộc thăng thiên của Nguời, các tông đồ truyền lại cho thính giả, với sự hiểu biết đầy đủ hơn mà chính các ông có được nhờ học ở những biến cố vinh hiển của Đức Kitô và nhờ được Thánh Thần chân lý soi sáng".

3. Các sách Tin Mừng. "Vậy các thánh sử đã viết bốn sách Tin Mừng: các ngài chọn một số trong nhiều điều đã được truyền lại bằng miệng hay đã được chép ra rồi, tóm tắt hoặc giải thích một số điều tuỳ theo tình trạng của các Giáo hội, sau cùng các ngài vẫn giữ hình thức lời giảng, mà bao giờ cũng nhằm truyền đạt cho chúng ta những điều xác thực và chân thành về Chúa Giêsu" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 19: AAS 58 (1966) 826-827)

127 1154         Trong Hội Thánh, bốn sách Tin Mừng chiếm địa vị có một không hai: bằng chứng là phụng vụ luôn tôn kính và các thánh trong mọi thời đều say mê.
Không có giáo lý nào tốt hơn, quí hơn và sáng chói hơn bản văn Tin Mừng. Hãy xem và ghi nhớ những gì Đức Kitô, là Chúa và là Thầy của chúng ta, đã dạy qua các lời nói và thực hiện qua các hành động của Người (Thánh Césaria la Jeune).

2705    Trên hết mọi sự, chính Tin Mừng bổ dưỡng tôi trong các giờ cầu nguyện; nơi đó, tôi tìm thấy tất cả những gì cần thiết cho linh hồn đáng thương của tôi. Nơi đó tôi luôn khám phá những ánh sáng mới mẻ, những ý nghĩa ẩn giấu và mầu nhiệm (Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu).

Tính thống nhất giữa Cựu Ước và Tân Ước

De Veteris et Novi Testamenti unitate
128 1094 489  Ngay từ thời các tông đồ (x. 1Cr 10,6.11; Dt 10,1; 1Pr 3,21) và trong suốt truyền thống của mình, Hội Thánh đã soi sáng tính thống nhất của ý định Thiên Chúa trong cả hai Giao Ước, nhờ cách đọc tiên trưng (per typologiam). Cách đọc này nhận ra trong các công trình của Thiên Chúa dưới thời Cựu Ước những “hình ảnh báo trước” điều Thiên Chúa sẽ thực hiện lúc thời gian đến hồi viên mãn, nơi Người Con nhập thể của Ngài.

129 651 2055 1968     Vậy các Kitô hữu phải đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của Đức Kitô chết và sống lại. Cách đọc tiên trưng này làm tỏ hiện nội dung vô tận của Cựu Ước. Nhưng không được quên rằng Cựu Ước vẫn có giá trị mặc khải riêng, mà chính Chúa Giêsu đã tái khẳng định (x. Mc 12,29-31). Đàng khác, Tân Ước đòi hỏi cũng phải được đọc dưới ánh sáng Cựu Ước. Việc huấn giáo của Hội Thánh thời sơ khai luôn làm như vậy (x. 1Cr 5,6-8; 10,1-11). Theo một ngạn ngữ cổ xưa, Tân Ước ẩn tàng trong Cựu Ước, Cựu Ước tỏ lộ trong Tân Ước: “cái Mới tiềm ẩn trong cái Cũ, còn cái Cũ xuất hiện trong cái Mới” "Novum in Vetere latet et in Novo Vetus patet" (Thánh Augustinô, Quaestiones in Heptateucum, thất thư 2,73; CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 16)

130.     Cách đọc tiên trưng cho thấy tính năng động hướng tới việc hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa, lúc “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Như vậy, thí dụ, việc kêu gọi các tổ phụ và cuộc Xuất Hành khỏi Ai cập vẫn không mất đi giá trị riêng của chúng trong kế hoạch của Thiên Chúa, mặc dầu đồng thời, chúng là những giai đoạn trung gian trong kế hoạch ấy.

 


V. KINH THÁNH TRONG ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH

De sacra Scriptura in Ecclesiae vita  

 

131.     "Lời Chúa còn có sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Hội Thánh, ban sức mạnh đức tin, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Hội Thánh" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21). Cần phải "mở rộng đường cho các Kitô hữu đến với Thánh Kinh" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 22).

132 94.            "Nghiên cứu Thánh Kinh phải là hồn của khoa thần học thánh. Thừa tác vụ Lời Chúa - gồm có là việc rao giảng thuộc mục vụ, dạy giáo lý và mọi huấn dụ Kitô giáo, trong đó bài giảng phụng vụ phải chiếm một chỗ quan trọng - phải được nuôi dưỡng và gia tăng sinh lực cách lành mạnh, nhờ lời Thánh Kinh (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 24)".

133 2653 1792            Hội Thánh "tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu "hãy năng đọc Thánh Kinh để học biết khoa học siêu việt của Đức Giêsu Kitô (Pl 3,8). "Vì không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô" (Thánh Giêrônimô, CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 25).

 

 

TÓM LƯỢC

Compendium


134.     "Toàn bộ Thánh Kinh chỉ là một cuốn sách duy nhất, và cuốn sách duy nhất ấy chính là Đức Kitô, vì toàn bộ Thánh Kinh nói về Đức Kitô và được hoàn tất trong Đức Kitô" (Hugues de Saint Dearen, Nôê 2,8 PL 176, x.ibid 2,9).

135.     "Các sách Thánh Kinh chứa đựng Lời Thiên Chúa và vì được linh hứng, nên thực sự là Lời Chúa" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 24).

136.     Thiên Chúa là tác giả của Thánh Kinh theo nghĩa Người là Đấng linh hứng các tác giả nhân loại: Người tác động nơi họ và qua họ. Như thế, Người bảo đảm các tác phẩm của họ giảng dạy không sai lầm chân lý cứu độ (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 11).

137.     Muốn giải nghĩa các Sách Thánh đã được Thiên Chúa linh hứng, trước hết phải chú tâm đến điều Thiên Chúa muốn mặc khải qua các thánh ký, để cứu độ chúng ta. "Điều gì phát sinh từ Thánh Thần chỉ hiểu được trọn vẹn nhờ Thánh Thần" (Origiênê, Homiliae, bài giảng Xh 4,5 PL 176, 642; 643).

138.     Hội Thánh đón nhận và tôn kính 46 sách của Cựu Ước và 27 sách của Tân Ước như là những sách được Thiên Chúa linh hứng.

139.     Bốn quyển Tin Mừng chiếm địa vị trung tâm của toàn bộ Thánh Kinh, vì Đức Kitô là trung tâm của Tin Mừng.

140.     Vì Thiên Chúa chỉ có một ý định cứu độ nhân loại và chỉ có một mặc khải duy nhất, nên cả hai giao ước thống nhất với nhau: Cựu Ước chuẩn bị cho Tân ước, Tân Ước hoàn tất Cựu ước, cả hai soi sáng cho nhau, cả hai đều thật sự là Lời Thiên Chúa.

141.     "Hội Thánh vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh như từng tôn kính chính Mình Thánh Chúa (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 21)": cả hai nuôi dưỡng và chi phối toàn diện đời sống Kitô hữu. "Lời Ngài là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi" (Tv 119, 105) (x. Is 50,4).

 

 

 

 

 

Trở Về Đầu Trang

 

 

Xin Thiên Chúa là Cha Nhân Từ chúc lành cho
Quý Cha, Quý Tu Sỹ và Quý Anh Chị Em
Phòng Đạo Binh Hồn Nhỏ
Phòng Đạo Binh Hồn Nhỏ