ĐOẠN THỨ NHẤT NHIỆM CỤC BÍ TÍCH SECTIO PRIMA CAPUT PRIMUM I. CÁC BÍ TÍCH CỦA ĐỨC KITÔ II. CÁC BÍ TÍCH CỦA HỘI THÁNH Như vậy, thừa tác vụ linh mục là dây liên kết mang tính bí tích nối kết hoạt động phụng vụ với những gì các tông đồ đã nói và làm; và qua các ngài, với những gì Đức Kitô, là nguồn gốc và nền tảng của các bí tích, đã nói và làm. Dấu ấn này không thể xóa đi được, luôn tồn tại trong người Kitô hữu như bảo chứng tích cực của ân sủng, như lời hứa và bảo đảm được Thiên Chúa che chở, và như ơn gọi được phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ Hội Thánh. Các bí tích này chỉ được ban một lần. III. CÁC BÍ TÍCH CỦA ĐỨC TIN 1122 849 1236. IV. CÁC BÍ TÍCH CỦA ƠN CỨU ĐỘ 1127 1084 1105 696. Khi bí tích được cử hành theo ý hướng của Hội Thánh, quyền năng của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần hoạt động trong và qua bí tích ấy, không phụ thuộc vào sự thánh thiện của bản thân thừa tác viên. Tuy nhiên, hiệu quả của các bí tích còn tuỳ thuộc vào thái độ nội tâm của người lãnh nhận. V. CÁC BÍ TÍCH CỦA ĐỜI SỐNG VĨNH CỬU Như thế, Phụng Vụ chia sẻ ước muốn của Chúa Kitô: "Thầy khao khát mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em... cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa" (Lc 22,16). Trong các bí tích của Chúa Kitô, Hội Thánh nhận được bảo chứng gia nghiệp của Người, đã dự phần vào đời sống vĩnh cửu, đang khi "chờ đợi ngày hồng phúc, ngày Đức Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang" (Tt 2, 13). "Thần Khí và Tân Nương cùng nói: xin Ngài ngự đến... xin Ngài ngự đến, lạy Chúa Giêsu" (Kh 22, 17. 20). Compendium 1131. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
CATECHISMUS CATHOLICAE ECCLESIAE
1992
PHẦN THỨ HAI
Cử Hành Mầu Nhiệm Kitô Giáo
PARS SECUNDA
MYSTERII CHRISTIANI CELEBRATIO
OECONOMIA SACRAMENTALIS
CHƯƠNG I
MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG THỜI ĐẠI CỦA HỘI THÁNH
MYSTERIUM PASCHALE IN ECCLESIAE TEMPORE
Mục 2
MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG CÁC BÍ TÍCH CỦA HỘI THÁNH
Articulus 2: Mysterium Paschale in Ecclesiae sacramentis
1113 1210.
Toàn bộ đời sống Phụng Vụ của Hội Thánh xoay quanh Hiến Tế Thánh Thể và các Bí Tích. Có bảy bí tích: Thánh Tẩy, Thêm Sức hay Xức Dầu Thánh, Thánh Thể, Hòa Giải, Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức Thánh, Hôn Phối (CĐ Lyon II, DS 860; CĐ Florentinô, DS 1310; CĐ Triđentinô, DS 1601). Trong mục này, chúng ta bàn đến đặc tính của bảy bí tích theo quan điểm thần học. Những đặc tính chung liên quan đến việc cử hành sẽ được trình bày ở chương II, những điểm đặc thù của từng bí tích sẽ được trình bày ở đoạn II.
"Dựa vào giáo lý của Kinh Thánh, các truyền thống tông đồ và sự đồng tâm nhất trí của các giáo phụ", chúng tôi tuyên tín rằng "các bí tích của Luật Mới đều do Chúa Giêsu thiết lập" (CĐ Triđentinô, DS 1600-1601).
1115 512-560.
Những lời Chúa nói cũng như những việc Chúa làm trong đời sống ẩn dật cũng như trong đời sống công khai, đều có giá trị cứu chuộc, tiền dự vào hiệu năng của mầu nhiệm Vượt Qua. Những lời nói và hành động này tiên báo và chuẩn bị những gì Người ban cho Hội Thánh khi mọi sự đã hoàn tất. Các mầu nhiệm trong trong đời sống của Đức Kitô là nền tảng cho những gì Người ban qua các bí tích nhờ các thừa tác viên của Hội Thánh, vì "những điều hữu hình nơi Đấng Cứu Độ được chuyển vào các mầu nhiệm"(Thánh Lêô Cả, Bài giảng 74,2).
1116 1504,774.
Các bí tích là "những kỳ công của Thiên Chúa" trong Giao Ước mới và vĩnh cửu, vì là "sức lực phát xuất" từ Thân Xác Đức Kitô (x.Lc 5,17; 6,19; 8,46), luôn sống động và ban phát sự sống, và là những tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trong Thân Thể Chúa Kitô là Hội Thánh.
1117 120.
Nhờ Thánh Thần dẫn vào "chân lý vẹn toàn" (x.Ga 16,13), Hội Thánh dần dần nhận ra kho tàng quý báu đã nhận từ Đức Kitô và minh định việc phân phát kho tàng ấy như Hội Thánh đã làm với Quy điển Sách Thánh và tín điều, như người quản lý trung tín các mầu nhiệm của Thiên Chúa (x.Mt 13,52; 1Cr 4,1). Vì vậy, theo dòng thời gian, Hội Thánh đã nhận định trong số các cử hành phụng vụ, có bảy bí tích đúng nghĩa do Chúa Kitô thiết lập.
1118 1396.
Các bí tích "thuộc về Hội Thánh" theo hai nghĩa: do Hội Thánh và cho Hội Thánh."Do Hội Thánh" vì Hội Thánh là bí tích của Chúa Kitô, Đấng đang hoạt động trong Hội Thánh nhờ sứ vụ của Thánh Thần. "Cho Hội Thánh" vì các bí tích xây dựng Hội Thánh (Thánh Augustinô, De civitate Dei, Thành Đô Thiên Quốc, 22,17; Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, Tổng Luận Thần Học III, q. 64, a. 2, ad 3 ); chúng bày tỏ và thông truyền cho con người, nhất là trong bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm hiệp thông của Thiên Chúa Tình Thương, Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Chí Thánh.
1119 792.
Kết hợp với Đức Kitô là Đầu "thành một chủ vị thần bí duy nhất" (Piô XII, thông điệp "Nhiệm Thể Chúa Kitô"), Hội Thánh cử hành các bí tích với tư cách là "cộng đoàn tư tế", có tổ chức. Nhờ bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, dân tư tế có khả năng cử hành Phụng Vụ; một số Kitô hữu "nhờ chức thánh, được đặt lên nhân danh Chúa Kitô để chăn dắt Hội Thánh bằng ân sủng và Lời Thiên Chúa " (CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11).
1120 1547.
Chức linh mục thừa tác hay phẩm trật (CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 10) là để phục vụ chức tư tế cộng đồng nhờ bí tích Thánh Tẩy. Thật sự chính Chúa Kitô hoạt động trong các bí tích, nhờ Chúa Thánh Thần, hầu mưu ích cho Hội Thánh. Sứ mạng cứu rỗi được Chúa Cha ủy thác cho Chúa Con khi Người xuống thế làm người, được Chúa Con ủy thác cho các tông đồ và các tông đồ truyền lại cho những người kế nhiệm các ngài; họ đón nhận Thánh Thần của Đức Giêsu để hành động nhân danh Người và là hiện thân của Người (x.Ga 20, 21-23; Lc 24,47; Mt 28, 18-20).
1121 1272, 1304 1582.
Ngoài việc ban ân sủng, ba bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh còn in vào linh hồn một "ấn tích" hay "ấn tín", nhờ đó, người tín hữu được tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và trở nên thành viên của Hội Thánh với cấp bậc và phận vụ khác nhau. Nhờ Thánh Thần, dấu ấn này làm cho người tín hữu nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và Hội Thánh.
Đức Kitô đã sai các tông đồ đi để "nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội" (Lc 24,47), "anh em hãy đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần... để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy" (Mt 28,19-20). Sứ vụ thanh tẩy cũng là sứ vụ bí tích được bao hàm trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, vì bí tích đã được chuẩn bị bằng Lời Chúa và đức tin đón nhận Lời Chúa:
"Dân Chúa được đoàn tụ trước hết là nhờ Lời Thiên Chúa Hằng Sống... Cần phải rao giảng Lời Chúa để dẫn họ đến lãnh nhận các bí tích, vì đây là những bí tích đức tin, mà đức tin lại được phát sinh và nuôi dưỡng bằng Lời Chúa" (CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 4).
1123 1154.
"Các bí tích có mục đích thánh hóa con người, xây dựng Thân Thể Chúa Kitô và sau cùng thờ phượng Thiên Chúa. Tuy nhiên vì là những dấu chỉ, các bí tích còn giữ vai trò giáo huấn nữa. Không những các bí tích giả thiết phải có đức tin, mà còn dùng lời nói và sự vật để nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin đó. Do đó, được gọi là các bí tích đức tin ”(CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum concilium, 59).
1124 166 1327 78.
Đức tin của Hội Thánh có trước đức tin của người tín hữu, người tín hữu được mời gọi cùng tin với Hội Thánh. Khi cử hành các bí tích, Hội Thánh tuyên xưng đức tin đã lãnh nhận từ các tông đồ; do đó, có ngạn ngữ: Cầu nguyện thế nào, tin thế ấy. Luật cầu nguyện là luật đức tin, Hội Thánh tin như Hội Thánh cầu nguyện. Phụng Vụ là một yếu tố cấu thành Truyền Thống thánh thiện và sống động của Hội Thánh (CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 8).
1125 1205.
Vì thế, các thừa tác viên hay cộng đoàn không được tùy tiện sửa đổi hay thêm bớt nghi thức bí tích nào. Ngay cả quyền tối thượng trong Hội Thánh cũng không thể tùy tiện thay đổi Phụng Vụ, mà chỉ có thể thay đổi dựa theo đức tin và tôn trọng mầu nhiệm Phụng Vụ.
1126 815.
Ngoài ra, vì các bí tích diễn tả và phát huy sự hiệp thông đức tin trong Hội Thánh, nên "luật cầu nguyện" là một trong những tiêu chuẩn cốt yếu của cuộc đối thoại nhằm tái lập sự hiệp nhất các Kitô hữu ( CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 2 và 15).
Khi được cử hành đúng đắn trong đức tin, các bí tích trao ban ân sủng mà chúng biểu hiện (CĐ Trentô, DS 1605 và 1606). Các bí tích đều hữu hiệu vì chính Chúa Kitô hoạt động: chính Người rửa tội, chính Người hành động trong các bí tích để ban ân sủng mà bí tích biểu hiện. Chúa Cha luôn nhận lời khẩn nguyện đầy tin tưởng của Hội Thánh, khi Hội Thánh bày tỏ đức tin vào quyền năng Chúa Thánh Thần trong kinh nguyện Xin Ban Thánh Thần ở mỗi bí tích. Cũng như lửa biến đổi mọi thứ nó chạm tới thành lửa, Chúa Thánh Thần cũng biến đổi những gì quy phục quyền năng Người thành Sự Sống thần linh.
1128 1584.
Vì thế, Hội Thánh khẳng định (CĐ Trentô: DS 1608): các bí tích có hiệu quả "ex opere operato" (dịch từng chữ là: do chính sự việc được thực hiện), nghĩa là có hiệu quả nhờ công trình cứu độ của Chúa Kitô đã được hoàn thành một lần dứt khoát. "Bí tích không thành sự do sự công chính của người trao ban hay người lãnh nhận, nhưng do quyền năng Thiên Chúa" (Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, Tổng Luận Thần Học III, q. 68, a. 8, c).
1129 1257,2003 460.
Hội Thánh khẳng định: để được cứu rỗi, người tín hữu cần đến các bí tích của Giao Ước Mới (CĐ Trentô: DS 1604) . Ân sủng bí tích là ơn Thánh Thần được Chúa Kitô ban cho riêng từng bí tích. Chúa Thánh Thần chữa lành và biến đổi những ai đón nhận Người,bằng cách làm cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con Thiên Chúa. Chính Thánh Thần tạo nên hiệu quả của đời sống bí tích khi cho người tín hữu thông phần vào bản tính Thiên Chúa (x. 2 Pr 1,4), bằng cách liên kết đời sống của họ với đời sống Đức Kitô, Đấng Cứu Thế.
1130 950.
Hội Thánh họp mừng mầu nhiệm Chúa Kitô "cho tới khi Người lại đến" và khi "Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi loài" (x. 1Cr 11, 26;15, 28). Ngay từ thời các tông đồ, Phụng Vụ được Thánh Thần thôi thúc hướng đến cùng đích của mình bằng lời tha thiết khẩn nguyện trong Hội Thánh: "Xin Chúa ngự đến" ( 1Cr 16,22).
Thánh Tôma tóm lược các chiều kích của bí tích như sau: "Bí tích là dấu chỉ gợi nhớ những gì đã xẩy ra, tức là cuộc khổ nạn của Chúa Kitô; là dấu chỉ cho thấy những gì cuộc khổ nạn này gây tác động trên chúng ta, tức là ân sủng; là dấu chỉ tiên báo Vinh Quang sẽ đến" (Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, Tổng luận Thần học III, q.60, a.3).
TÓM LƯỢC
Các bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng do Chúa Kitô thiết lập và ủy thác cho Hội Thánh. Qua các bí tích, Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống thần linh. Các nghi thức hữu hình dùng để cử hành bí tích, biểu thị và thực hiện ân sủng riêng của từng bí tích. Các bí tích sinh hiệu quả nơi những người lãnh nhận hội đủ điều kiện.
1132.
Hội Thánh cử hành các bí tích với tư cách là cộng đoàn tư tế được phân nhiệm theo chức tư tế cộng đồng và chức tư tế của thừa tác viên có chức thánh.
1133.
Chúa Thánh Thần chuẩn bị các tín hữu lãnh nhận bí tích, bằng Lời Chúa và đức tin của những tâm hồn sẵn sàng đón nhận Lời Chúa. Các bí tích củng cố và diễn tả đức tin.
1134.
Đời sống bí tích phát sinh hiệu quả cho cá nhân cũng như cho Hội Thánh: vừa giúp các tín hữu sống cho Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu; vừa giúp Hội Thánh tăng trưởng trong đức mến và trong sứ mạng làm chứng.
Xin Thiên Chúa là Cha Nhân Từ chúc lành cho